Nội dung Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Tên kinh

"Niêm hoa vi tiếu": tại pháp hội Linh Thứu, khi Phật giơ cành hoa sen thì chỉ có tôn giả Đại Ca-diếp (Mahākāśyapa) liễu ngộ và mỉm cười trong khi đại chúng không ai hiểu. Phật đã ấn chứng ngài Ca-diếp đã lĩnh hội được lý Thiền đồng thời trao y bát cho ngài (thành Sơ tổ Thiền tông)

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có tên đầy đủ là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Hộ Niệm. Trong đó, Diệu Pháp mang ý nghĩa là Tri kiến Phật có sẵn trong mỗi chúng sinh (Phật tính) còn Liên hoa (tức hoa sen) là một loài hoa mang ý nghĩa biểu tượng cho Diệu Pháp. Sở dĩ liên hoa là dụ của Diệu Pháp do hoa sen có những đặc điểm sau:

Hoa sen và Tri kiến Phật
Đặc điểm hoa senNét tương đồng với Tri kiến Phật
1Cánh hoa và gương sen có cùng một lúc, khi cánh hoa tàn dần thì gương sen dần lộ ra đến khi cánh tàn hết thì gương sen lộ ra đầy đặn.Tri kiến Phật là có sẵn trong mỗi chúng sinh. Sở dĩ chúng sinh không thể nhận ra được là do bị vô minh che phủ. Nếu tu hành thì Tri kiến Phật dần hiện ra viên mãn.
2Hoa sen mọc trong bùn lầy hôi tanh, nhơ nhớp nhưng vẫn đẹp thơm thanh khiết.Thân xác ngũ uẩn này đầy rẫy điều ô uế, bất tịnh. Tuy nhiên, sâu thẳm trong nó là cái hằng thanh tịnh - Tri kiến Phật.
3Hoa sen có những cành vươn khỏi mặt nước, có cành nằm trong nước thậm chí có cành vừa nhú khỏi bùn. Tuy nhiên, tất cả các cành hoa trên vẫn sẽ nở ra những đóa hoa thơm ngát, thanh khiết.Dù căn cơ của mỗi chúng sinh là khác nhau tuy nhiên, ai cũng có Tri kiến Phật khi tu hành viên mãn thì đắc Phật quả.
4Hoa sen không bị ong bướm bu đậu hay bị phụ nữ dùng để trang điểm.Tri kiến Phật là pháp vi diệu, không bị bất cứ pháp thế gian nào làm ô nhiễm.

Tri kiến Phật là Diệu Pháp vì đây là pháp vượt qua mọi pháp thế gian, không có pháp nào có thể sánh được Tri kiến Phật. Tri kiến Phật là pháp sẵn có, bất sinh - bất diệt có trong mọi chúng sinh tức mọi chúng sinh đều có Tri kiến Phật và có thể giác ngộ thành Phật. Tri kiến Phật là tư tưởng cốt lõi của kinh: nội dung kinh chủ yếu trình bày và diễn giải tư tưởng này.

Khái quát

Cấu trúc kinh

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa gồm 28 phẩm và bảy quyển:

Phật Thích Ca ngồi trên tòa sư tử trong tháp Phật Đa Bảo (Prabhutaratna).
CẤU TRÚC KINH PHÁP HOA
QuyểnPhẩmQuyểnPhẩm
1(1) Phẩm Tựa; (2) Phẩm Phương Tiện2(3) Phẩm Thí Dụ, (4) Phẩm Tín Giải
3(5) Phẩm Dược Thảo Dụ, (6) Phẩm Thụ Ký, (7) Phẩm Hóa Thành Dụ4(8) Phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thụ Kí, (9) Phẩm Thụ Học, Vô Học Nhân Ký, (10) Phẩm Pháp Sư, (11) Phẩm Hiện Bửu Tháp, (12) Phẩm Đề-Bà-Đạt-Đa, (13) Phẩm Trì
5(14) Phẩm An Lạc Hạnh, (15) Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất, (16) Phẩm Như Lai Thọ Lượng, (17) Phẩm Phân Biệt Công Đức6(18) Phẩm Tùy Hỷ Công Đức, (19) Phẩm Pháp Sư Công Đức, (20) Phẩm Thường Bất Khinh Bồ tát, (21) Phẩm Như Lai Thần Lực, (22) Phẩm Chúc Lụy, (23) Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bản Sự
7(24) Phẩm Diệu Âm Bồ-tát, (25) Phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn, (26) Phẩm Đà-la-ni, (27) Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bản Sự, (28) Phẩm Phổ Hiền Bồ-tát Khuyến Phát

Bố cục

Quang cảnh Phật thuyết giảng kinh Pháp Hoa trên núi Linh Thứu ở ngoại thành Xá-vệ được vẽ vào thời Kamakura (Nhật Bản)

Theo ngài Trí Nghĩ (vị tổ sư của Thiên Thai tông), xét về nội dung thì bố cục kinh Diệu Pháp Liên Hoa có thể chia thành hai phần chính:

  • Phần Tích môn từ phẩm 1-14 miêu tả buổi thuyết giáo của Phật trong thế giới thực bao gồm: thuyết giảng ý nghĩa của Phật thừa thông qua nhiều thí dụ, thụ ký cho các đệ tử của Thế tôn như ngài Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Ma-ha-ca-diếp... thậm chí là Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) sẽ chứng Phật quả trong tương lai.
  • Phần Bản môn từ phẩm 15-28 đưa giáo pháp của Phật vượt lên không-thời gian và trở thành một phần của thế giới siêu thực, vũ trụ rộng lớn như Pháp thân thường tại (Phật đã đắc quả Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác không phải từ thời Ấn Độ thế kỉ VI TCN mà từ rất xa xưa, chẳng qua vì muốn khai thị cho chúng sinh mà ngài mới giáng thế cũng như nhập Vô Dư Niết-bàn) hay tháp phật Đa Bảo...

Tuy nhiên, nhiều học giả cho rằng cách sắp xếp như vậy chưa thực sự hợp lí, ví dụ: phẩm 11 Hiện Bảo tháp, sự việc Phật Đa Bảo xuất hiện giữa chúng hội được nhìn nhận là nội dung thuộc bản môn vì lúc này Phật pháp không còn kẹt giữa thời của Phật Thích Ca mà vượt lên trên thời gian (Phật Đa Bảo đã nhập Bát-niết-bàn từ rất lâu nhưng vẫn còn xuất hiện ở Pháp Hoa hội). Do đó, chìa khóa của việc phân định giữa Tích Môn và Bản Môn phụ thuộc vào nội dung đoạn văn: nếu Phật pháp mang tính lịch sử thì thuộc Tích Môn (như hình ảnh Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh (Candrasūryapradīpa) diệt độ trong phẩm 1, ...) còn nếu như mang tính phi lịch sử thì thuộc Bản môn (như hiện tháp Đa Bảo ở phẩm 11 hay Long nữ thành Phật ở phẩm 12...).

Nội dung chi tiết

Phẩm 1. Tựa: Sau khi thuyết kinh Vô Lượng nghĩa (sa. Ananta Nirdeśa Sūtra), Phật Thích-ca-mâu-ni nhập đại định, làm xuất hiện nhiều hiện tượng siêu việt. Ngài Di-lặc hỏi nguyên do của sự việc trên và được Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi trả lời: Phật chuẩn bị thuyết kinh Pháp Hoa.

Phẩm 2-10

Phẩm 2. Phương tiện (Upāya-kauśalya): Phật xuất định và giảng Nhất thừa (Ekayana): chỉ có một Phật thừa duy nhất, tuy nhiên do căn cơ chúng sinh khác nhau nên chư Phật phải dùng phương tiện phân Phật thừa thành Tam thừa (Triyāna) nhằm đưa tất cả chúng sinh đến chỗ giải thoát.

Phẩm 3. Thí dụ: Như Lai thụ ký (sa. Vyākarana) cho ngài Xá-lợi-phất (Śariputra); đồng thời trình bày thí dụ "người cùng tử": một trưởng giả (Phật) có ba người con (chúng sinh) vui vẻ chơi đùa trong căn nhà cháy (tam giới), dù hết sức gọi các con nhưng những đứa trẻ chẳng nghe nên ông đành nói rằng ông có thứ đồ chơi: xe dê (Thanh Văn thừa), xe hươu (Duyên Giác thừa), xe bò (Bồ-tát thừa) và gọi các con ra chơi; các con nghe lời liền chạy ra khỏi nhà cháy. Sau đó, người cha không cho ba chiếc xe trên mà thay vào đó cho những đứa con mình cỗ xe quý giá nhất (Phật thừa).

Phẩm 5. Dược Thảo Dụ

Phẩm 4. Tín giải: Các đại đệ tử Ma-ha Ca-diếp (sa. Mahākaśyapa), Tu-bồ-đề (sa. Subhūti), Đại Mục-kiền-liên (sa. Mahāmaudgalyāyāna), Ma-ha-Ca-chiên-diên (sa. Mahākātyāyana) trình bày thí dụ về Gã cùng tử: Một phú ông có đứa con bị thất lạc, sau bao nhiêu được gặp lại người con trở lại trong bộ dạng nghèo khổ, rách rưới nơi ngã đường. Thấy trưởng giả, người con mặc cảm với bản thân: cho rằng mình không xứng với hào môn và tìm về xóm nghèo để mưu sống. Người cha già nghĩ kế khuyên gọi gã cùng tử về hốt phân (bước đầu đến với con đường giải thoát) và hắn vui vẻ đồng ý. Tuy nhiên, đứa con lại truy tìm sự hân hoan trong nghèo khổ với ý chí hạ liệt (tự cho mình đã chứng quả A-la-hán là đủ, rốt ráo) nên người cha đành phải dùng nhiều phương chước: ban cho đầy đủ vật dùng, gọi gã là "con" hay thậm chí trao vàng, bạc, châu báu nhưng đứa con vẫn chưa thật sự thoát khỏi tư tưởng bạc nhược (ham vui pháp Tiểu thừa). Dần dần, ý chí gã cùng tử quảng đại hơn (từ chí Tiểu thừa sang tâm Đại thừa) và người cha đã thấy được điều đó nên đã phó chúc lại toàn bộ gia tài (Phật thừa) cho đứa con.

Phẩm 5. Dược Thảo dụ: Phật đưa ra thí dụ nữa về Phật thừa: tuy cùng một trận mưa (Phật thừa) nhưng hạt giống (căn tính chúng sinh) khác nhau sẽ mọc lên rừng cây với đủ loại cây khác nhau. Tuy nhiên, hạt mưa ấy đều thuấm nhuần một vị duy nhất cũng như "Như Lai nói pháp một tướng, một vị, một nghĩa là: tướng giải thoát, tướng la lìa, tướng diệt, tướng rốt ráo đến bậc "Nhất thiết chủng trí". Như vậy, tùy căn cơ chúng sinh mà Phật thuyết pháp nhằm đưa chúng sinh đắc quả Niết-bàn: "Pháp vương phá các cõi,/ Hiện ra trong thế gian/ Theo tính của chúng sinh/ Dùng các cách nói pháp."

Phẩm 6. Thụ ký: Phật Thích-ca thụ ký ngài Ma-ha Ca-Diếp, Đại Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Ca-chiên-diên sẽ chứng quả Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Phẩm 7. Hóa thành dụ: Phật Thích-ca kể về vị Phật quá khứ Đại Thông Trí Thắng Phật (Mahābhijñājñānābhibh): dù sau khi chiến thắng thiên ma Ba-tuần (sa. Māra) nhưng ngài vẫn nhập đại định và thuyết pháp. Mãi đến sau 10 tiểu kiếp[1] (sa. kalpa), Phật mới xuất đại định và chuyển pháp luân, hoằng pháp độ thế gian. Ngài có 16 người con, sau khi nghe cha đắc quả Bồ-đề liền xuất gia thành các Sa-di; các vị Sa-di được nghe kinh Pháp Hoa và khi lúc Phật Đại Thông Trí Thắng nhập đại định thuyết giảng kinh Pháp Hoa giúp chúng sinh giác ngộ. Mười sáu vị sa-di sau này đắc quả thành Phật như Phật Vô Lượng Thọ (sa. Amitābha) ở An Lạc quốc (sa. Sukhāvatī) , Phật Bất Động (sa. Akṣobhya) ở xứ Diệu Hỷ (sa. Abhirati), Phật Thích-ca ở cõi Ta-bà (sa. Saha)... Các vị Phật trên đều dựa vào căn cơ chúng sinh để nói pháp và các pháp ấy đều dẫn đến Phật thừa như trong Hóa thành dụ: một vị đạo sĩ dẫn chúng nhân đi tìm kho báu. Vì biết đường xa gian khổ (con đường tu hành) sẽ làm nhiều người sẽ thoái chí (thối chuyển trên Phật thừa) nên ông liền dùng pháp thuật của mình để tạo thành phố (Niết-bàn của A-la-hán và Bích-chi Phật) nhằm khuyến khích tinh thần người đi. Khi đến nơi, họ nghỉ ngơi thoải mái mà không có ý chí đi tiếp nên đạo sĩ đành nói: "Chỗ châu báu (Phật quả) ở gần, thành (A-la-hán, Bích-chi Phật quả) này không phải thật, của Ta biến hóa làm ra đó thôi (chỗ tu hành này chưa xong)!".

Phẩm 8. Ngũ bách đệ tử thụ ký: Phật thụ ký cho ngài Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử (Pūrna Maitrāyanīputra), ngài Kiều-trần-như (Kaundinya) và ngũ bách La-hán thành Các vị A-la-hán nói thí dụ Bảo châu trong áo: một người đến nhà bạn thân uống rượu, đến khi có việc quan gấp phải đi người ấy bỏ viên ngọc (Phật tính) vào trong áo gã say nhằm giúp bạn thân xa lìa khổ cực (đắc Phật quả). Gã say ấy về sau lang bạt khắp nơi, tha hương cầu thực, sống một cuộc đời nghèo khổ. Đến khi trùng phùng cố nhân thì người bạn ấy rất ngạc nhiên liền nói với gã say rằng anh ta đã bỏ viên ngọc vào túi áo mà gã say không biết (bị vô minh che lấp) nên phải lăn xả trong cuộc đời cùng cực (khổ) và khuyên người bạn nghèo ấy nên dùng viên ngọc để có một cuộc đời tốt hơn.

Phẩm 9.Thụ học vô học nhân ký: Phật thụ ký cho bậc hữu học[2] như ngài A-nan-đà (sa. Ānanda) và ngài La-hầu-la (sa. Rāhula) thành Phật đồng thời thụ ký cho tất cả thính chúng đều đắc quả Vô Thượng.

Phẩm 10. Pháp sư: Phật nói rằng kinh Pháp Hoa là tạng bí yếu của chư Phật "vua của các Kinh", do đó ai đọc tụng, giảng nói (tức một vị Pháp sư - Dharmabanaka) hay thậm chí nghe, chép, kính lễ miễn có "một niệm tùy hỷ" thì ngay lập tức được Phật thụ ký dù ngài có diệt độ. Đồng thời Phật cũng nhấn mạnh vai trò của kinh Pháp Hoa cho ngài Dược Vương Bồ-tát (Bhaiṣajyarāja).

Tranh vẽ (khoảng vào giữa thế kỉ XII ở Nhật Bản) cảnh Long Nữ cúng dàng Phật Thích-ca chuỗi châu báu, sau đó biến thành Phật.

Phẩm 11-20

Phật Thích-ca và Phật Đa Bảo ngồi trong bảo tháp

Phẩm 11. Hiện Bảo tháp: Khi Phật Thích-ca đang thuyết pháp thì xuất hiện bảo tháp của Phật Đa Bảo (Prabhūtaratna) xuất hiện giữa pháp hội. Bậc Bản Sư giảng cho ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ-tát (Mahāpratibhāna) về hạnh nguyện của Phật Đa Bảo: "Nếu ta được thành Phật sau khi diệt độ, trong cõi nước ở mười phương có chỗ nào nói kinh Pháp Hoa, thời tháp miếu của ta vì nghe kinh đó mà nổi ra nơi trước để làm chứng minh khen rằng: "Lành thay!". Phật Thích-ca thu hết hóa thân về và nhập thành một, sau đó ngài mới mở cửa bảo tháp. Phật Đa Bảo chia tòa sư tử cho Phật Thích Ca ngồi trong tháp.

Phẩm 12. Đề-bà-đạt-đa: Phật Thích-ca thuyết về mối nhân duyên giữa ngài và Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) trong tiền kiếp: tiên nhân (tiền thân Đề-bà-đạt-đa) đã chỉ bày kinh Pháp Hoa cho vua (tiền thân Phật Thích-ca) giúp vị vua đắc Phật quả hiện tại và trong pháp hội, ngài thụ ký cho Đề-bà-đạt-đa sẽ thành Phật hiệu Thiên Vương (Devarāja). Sau đó, hàng ngàn Bồ-tát (do ngài Văn-thù-sư-lợi giảng dạy kinh Pháp Hoa) từ Long cung bay lên đỉnh núi Linh Thứu. Trong đó có Long nữ, tiểu nữ của Long vương Ta-kiệt-la (Sāgara), bước đến và cúng dàng Phật Thích-ca. Tức thời, Long nữ biến thành Phật và hoằng pháp chúng sinh.

Phẩm 13. Trì: Phật khuyến khích chúng sinh nên thụ trì kinh Pháp Hoa đồng thời thụ ký cho các tì-kheo-ni Kiều-đàm-di (Gautamī), Gia-du-đà-la (Yaśodharā) và các tì-kheo-ni khác thành Chính giác.

Phẩm 14. An Lạc hạnh: An Lạc hạnh trình bày bốn phương pháp để thụ trì và giảng kinh Pháp Hoa đúng đắn: (1) an trú trong Hành xứ (an trú trong nhẫn nhục và hòa dịu trong mọi công việc) và Thân cận xứ (tránh xa người ác, ở gần người lành); (2) an trú trong An Lạc hạnh (trong lúc giảng kinh không nên nêu lên tốt, xấu bất kì người nào); (3) khi giảng kinh không mang theo lòng ganh ghét, khinh thị nhờ đó mà người nghe dễ tiếp thu, thực hành và (4) khởi tâm từ bi.

Phẩm 15. Tùng Địa Dũng Xuất: Khi các đại Bồ-tát (Mahasattva) phương khác thỉnh cầu Phật Thích-ca cho họ ở lại cõi Ta-bà để truyền bá và giữ gìn kinh Pháp Hoa sau khi ngài nhập diệt thì từ lòng đất xuất hiện vô số các vị đại Bồ-tát sẵn sàng thay Phật truyền bá kinh Pháp Hoa. Đức Bản sư nói với Bồ-tát A-dật-đa (Ajita) rằng ngài đã giáo hóa họ từ vô lượng đời quá khứ.

Phẩm 16. Như Lai thọ lượng: Phật thuyết rằng thực ra ngài đã đản sinh, đắc Phật quả và diệt độ từ rất lâu, và giờ ngài cũng đang trong tiến trình như vậy. Sở dĩ chư Phật làm vậy là muốn khai thị cho chúng sinh tỉnh ngộ và tu tập chính đạo.

Phẩm 17. Phân biệt công đức: phẩm này trình bày có muôn vàn chúng sinh chứng ngộ khi Phật thuyết giảng về thọ mạng Như Lai đồng thời nhấn mạnh công đức vô lượng của những người thụ trì kinh Pháp Hoa.

Phẩm 18. Tùy hỷ công đức: người nghe kinh Pháp Hoa mà sinh lòng hoan hỷ thì cũng được công đức to lớn.

Phẩm 19. Pháp sư công đức: Phật thuyết công đức của người giảng giải, truyền tụng kinh Pháp Hoa (pháp sư) sẽ được công đức vô lượng.

Phẩm 20-28

Phẩm 20. Thường Bất Khinh Bồ-tát: Bồ-tát Thường Bất Khinh (Sadāparibhūta) là tiền thân của Phật Thích Ca. Ngài luôn cung kính, chấp tay đảnh lễ bất kỳ người nào và nói: "Tôi rất kính quý Ngài chẳng dám khinh mạn. Vì sao? Vì quý Ngài đều tu hành đạo Bồ-tát sẽ được làm Phật." dù có bị xua đuổi, chê bai, khinh bỉ. Đến lúc sắp lâm chung, Bồ-tát Thường Bất Khinh được nghe kinh Pháp Hoa, từ đó thọ mạng dài lâu, chuyên giảng thuyết kinh Pháp Hoa độ thoát cho nhiều người.

Phẩm 21. Như Lai thần lực: Phật Thích-ca thị hiện thần lực chiếu suốt các cõi đồng thời nhấn mạnh đến vai trò của kinh Pháp Hoa là "tạng bí yếu của Như Lai".

Phẩm 22. Chúc Lũy: Phật phó chúc kinh Pháp Hoa cho các vị Bồ-tát tham gia chúng hội để các vị tiếp tục đem hoằng hóa kinh này đồng thời mời các hóa thân Phật (do Phật Thích-ca triệu tập để có thể mở tháp Phật Đa Bảo) trở về bản quốc.

Phẩm 23. Dược Vương Bồ-tát Bản sự: Tiền thân Bồ-tát Dược Vương (Bhaiṣajyarāja) là Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến (Sarvarūpasaṃdarśana) từng cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức (Candrasūryavimalaprabhāsaśrī) và kinh Pháp Hoa bằng cách uống các dầu thơm, đeo trang sức và đốt cháy thân (ngọn lửa kéo dài 1250 năm, sáng qua nhiều cõi Phật). Sau đó, Bồ-tát tái sinh được Phật Nhật Nguyệt Minh Tịnh Đức phó chúc kinh Pháp Hoa trước khi ngài nhập Niết-bàn. Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh sau khi trà tỳ cho Phật bèn đốt cánh tay mà phát nguyện được thành Phật, nhờ sức nguyện ấy mà cánh tay được hồi phục. Đồng thời, Phật Thích Ca cũng nhấn mạnh vai trò của kinh Pháp Hoa: "Như Phật là vua của các pháp, Kinh này cũng thế là vua của các Kinh." cũng như khẳng định công đức của hành giả khi trì tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Phẩm 24. Diệu Âm Bồ-tát:

Phẩm 25. Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn: Phẩm này là phẩm nổi tiếng nhất kinh Pháp Hoa và thường được trì tụng trong các khóa lễ quan trọng, nhật tụng hàng ngày. "Phổ Môn" nghĩa là cánh cửa rộng lớn, không phân biệt chúng sinh - mọi chúng sinh đều có thể bước qua cánh cửa rộng lớn này để đến với bến bờ giác ngộ. Bồ-tát Quán Thế Âm lắng nghe những âm thanh đau khổ từ những chúng sinh quằn quại trong biển luân hồi mà đến ứng cứu, độ thoát. Đoạn dưới đây trích dẫn hai đoạn đầu của phẩm:

Bồ-tát Quán Thế Âm yểm trợ cho thương gia qua chốn đầy cướp tặc.Bồ-tát Quán Thế Âm độ thoát chúng sinh khỏi hỏa hoạnLúc bấy giờ, ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: "Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?"Phật bảo ngài Vô Tận Ý Bồ Tát: "Thiện-nam-tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ Tát này một lòng xưng danh. Quán Thế Âm Bồ Tát tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát. Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức uy thần của Bồ Tát này được như vậy. Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát này liền được chỗ cạn. Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân châu các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tắp nơi nước quỷ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì các người đó đều được thoát khỏi nạn quỷ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì dao gậy của người cầm liền gãy từng khúc, người ấy liền được thoát khỏi. Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam-thiên đại-thiên muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì các quỷ dữ đó còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại được. Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thảy đều đứt rã, liền được thoát khỏi.Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam-thiên đại-thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: "Các Thiện nam tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát đó hay đem pháp vô-úy thí cho chúng sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thì sẽ được thoát khỏi oán tặc nầy". Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: "Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát!" vì xưng danh hiệu Bồ Tát nên liền được thoát khỏi. Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát sức oai thần to lớn như thế.

Phẩm 25. Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Bồ-tát Quán Thế Âm phổ độ chúng sinh bằng cách biến thành hóa thân thích hợp với sở đắc chúng sinh ấy để thuyết pháp mà từ đó độ thoát. Phẩm này miêu tả 33 hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm từ thân Phật, Bồ-tát đến thân Trưởng giả, Nữ nhân... Đồng thời, Phật cũng nhấn mạnh công đức to lớn của việc cúng dường, trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm.

Bồ-tát Quán Thế Âm độ chúng sinh qua những hóa thân khác nhau

Phẩm 26. Đà-la-ni: Bồ-tát Dược Vương tuyên các Đà-la-ni để bảo hộ những chúng sinh trì tụng kinh Pháp Hoa tránh khỏi những khổ não. Đồng thời, các nữ La-sát cũng phát nguyện bảo vệ người thụ trì kinh Pháp Hoa.

Phẩm 27. Diệu Trang Nghiêm Vương Bản sự: Tiền thân của Bồ-tát Dược Vương và Dược Thượng từng là vương tử của vua Diệu Trang Nghiêm. Hai vị vương tử là người mến mộ Phật Pháp trong khi quốc vương lại là kẻ ham mê pháp Bà-la-môn. Hai vị vương tử ấy liền thi triển pháp thuật có được nhờ tu hành theo Phật pháp nhằm cứu độ vua cha. Từ đó, vua sinh lòng sùng mộ Phật đạo đến mức thoái vị và cùng hoàng hậu xuất gia theo hai người con.

Phẩm 28. Phổ Hiền Bồ-tát khuyến phát: Bồ-tát Phổ Hiền phát nguyện sẽ bảo hộ và yểm trợ cho việc hành trì kinh Pháp Hoa trong hiện tại và tương lai.